Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 (số ký hiệu: 74/2014/QH13, tên quốc tế: 2014 Law on Vocational Education) là
văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp của
Việt Nam, mang tính định hướng luật hóa chủ trương đột phá chiến lược về giáo dục quốc dân, người lao động và nguồn nhân lực trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế những năm 2010. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp mới được quy định phân tách khỏi
giáo dục đại học, theo hướng gắn với nhu cầu lao động, nghề nghiệp của xã hội, mở cửa tính tư thục bằng việc khuyến khích
doanh nghiệp,
tổ chức xã hội tham gia, tăng tính tự chủ của các cơ sở giáo dục công lập lẫn tư thục, đồng thời sử dụng các chương trình đào tạo, giảng dạy tham khảo quốc tế, giữ vững các chính sách văn hóa, phong tục với nhà giáo và người học. Luật chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2015, và
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục được phân công là cơ quan chủ trì quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Thay vì tên gọi ban đầu của dự án xây dựng luật là "Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề", tên gọi được đổi thành "giáo dục nghề nghiệp" và ban hành đồng nghĩa với việc khiến
Luật Dạy nghề 2006 hết hiệu lực. Luật gồm 8 chương, 79 điều, quy định các vấn đề hệ thống giáo dục nghề nghiệp; tổ chức, hoạt động của cơ sở giáo dục nghề nghiệp; và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Các tổ chức giáo dục nghề nghiệp phải tuân thủ một số quy định về hình thức tổ chức, việc kiểm định chất lượng, chính sách áp dụng, vấn đề
tài sản và
tài chính; được tự chủ áp dụng các phương thức đào tạo chính quy, đào tạo thường xuyên, khuyến khích hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó, nhà giáo và người học được quan tâm đặc biệt bằng nhiều chính sách xã hội ưu đãi theo hướng bền vững.